Khi Mọi Thứ Đều Quy Về Khía Cạnh Kinh Tế và Gánh Nặng Chữ Hiếu trong Các Gia Đình Việt Đương Đại?

  • Mô tả khoá học
  • Thông tin giảng viên
  • Hướng dẫn đăng ký

Khi mọi thứ đều quy về khía cạnh kinh tế và gánh nặng chữ hiếu trong các gia đình Việt đương đại?

Chúng ta cần một lời mời gọi sự trở về với nội tâm, với gia đình để dựng lại nếp sống, giá trị văn hóa truyền thừa từ cha ông. Để mai này cháu con còn biết ta là ai, cội nguồn tổ tiên, gia tộc là ai…?

Đối với người Việt, an sinh hộ gia đình bao đời nay giữ vai trò khá quan trọng trong đời sống khi được củng cố bởi những giá trị văn hóa Nho giáo thông qua các thực hành giá trị hiếu nghĩa với ông bà, cha mẹ. Những giá trị này không chỉ thấm đẫm trong các nền văn hóa Á Đông mà còn được biết đến trong nền văn minh Hy Lạp, nơi mà từ Oikonomia (gia đình) có gốc từ Oikos đơn giản chỉ ngôi nhà hay tất cả những gì được chứa đựng trong không gian sống ấy, để nó được vận hành theo đúng mục đích.

Theo đó, từ economy/kinh tế trong ngôn ngữ hiện đại ít nhiều hàm chứa đặc đính của mô hình quản trị kinh tế gia đình (đơn vị kinh tế tự sản, tự tiêu). Đó cũng nguồn gốc của các mô hình trách nhiệm xã hội được định danh là mô hình gia trưởng, khi người đứng đầu gia đình có trách nhiệm quán xuyến và chăm sóc các thành viên trong gia đình theo nguyên tắc “trẻ cậy cha, già cậy con”. Thế cho nên trong tiếng La tinh từ familia, vốn có gốc từ famulus tức kẻ ăn, người ở trong nhà, tức ngôi nhà có người cai quản nhưng đồng thời mang hàm nghĩa “sự chăm sóc cho nhau”.

Tuy nhiên, bước vào thế kỷ XX, mô hình các đại nhà máy, công xưởng công nghiệp quy mô lớn ra đời, đặc biệt là quá trình lưu động dòng vốn được vận hành xuyên quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Các mô hình quản trị kinh tế nhà nước hiện đại ra đời với chính sách phúc lợi có đi có lại khi NLĐ đóng góp, tích lũy để đến khi gặp rủi ro hay khi về già thì hệ thống bảo hiểm sẽ chi trả cho những người đã đóng BHXH theo nguyên tắc đóng – hưởng hay còn gọi là mô hình tân gia trưởng.

Cho đến nay, các thực hành trách nhiệm xã hội, hay mô hình phúc lợi xã hội cũng đã thay đổi, các nguyên tắc lý tính dần thay thế cho các mô hình truyền thống vốn theo nguyên tắc “chăm sóc lẫn nhau”. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngày nay cũng chỉ thực hành trách nhiệm của mình theo nghĩa “trách nhiệm hữu hạn” tại các quốc gia mà họ tới đầu tư, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển luôn dành rất nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư ngoại quốc.

Trong hơn 30 năm qua, khi Việt Nam trải thảm đỏ đón các doanh nghiệp ngoại quốc tới đầu tư thì cũng mặc nhiên trách nhiệm phúc lợi thuộc về quốc gia sở tại. Chính vì lẽ đó, chúng ta có thể nhận thấy một khoảng cách trong nhận thức về quyền và trách nhiệm của các bên liên quan trong việc đảm bảo trách nhiệm xã hội và lưới an sinh cho NLĐ trong thực tiễn phát triển ở Việt Nam. Điều này đã ít nhiều là rào cản cho việc chuyển đổi từ mô hình truyền thống sang mô hình nhà nước phúc lợi xã hội, trong đó BHXH như là công cụ đảm bảo an sinh xã hội.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa, di cư nội địa và xuyên quốc gia diễn ra trong vài thập niên trở lại đây đang phản ánh quá trình biến động cơ cấu dân cư lớn tại nhiều quốc gia. Bối cảnh kinh tế xã hội ở Việt Nam từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX đến nay cũng được xem là một cuộc chuyển biến xã hội có tác động đáng kể đến đời sống người dân với xu hướng di cư, giải lãnh thổ hóa cộng đồng và chuyển biến tâm thức nơi người dân, đặc biệt là nếp sống gia đình bao gồm cả khu vực nông thôn và thành thị.

Trong bối cảnh nếp sống, tập quán văn hóa trong không gian gia đình chịu tác động ít nhiều bởi quá trình chuyển biến, tái cấu hình xã hội từ cấp độ gia đình cho đến cộng đồng. Một tiến trình cho thấy bức tranh văn hóa nhiều biến động với hình ảnh hàng triệu người trẻ rời khỏi gia đình, quê hương bản quán để làm cuộc mưu sinh “nơi đất khách, quê người”.

Tiến trình toàn cầu hoá ít nhiều làm cho các nền văn minh, văn hóa xích lại gần nhau, thông qua đó còn tác động đến văn hóa, lối sống và ý thức hệ giữa các nhóm dân cư. Các mô thức ứng xử, lối sống mang tính toàn cầu được khuếch tán nhiều nơi trên thế giới. Song song tiến trình đó, các trào lưu tư tưởng Tân tự do được hình thành và được truyền bá rộng khắp theo làn sóng toàn cầu khoá.

Một trong những đặc điểm nổi bật của tư tưởng này là “Tất cả mọi thứ đều có thể quy về khía cạnh kinh tế” như thể trên đời không có gì khác ngoài kinh tế. Người lao động tự kiếm sống và phải tự chịu trách nhiệm với bản thân được xem là một trong những diễn ngôn của xã hội hiện đại theo kiểu “tôi cũng có cơ hội như mọi người, chỉ vì tôi không biết nắm lấy nên mới thất bại”. Thế là giá trị kim bản vị được lên ngôi song hành với xã hội tiêu dùng. Người ta lấp đầy đời sống bằng công việc và tiêu dùng như thể trên đời không còn gì khác ngoài hai thứ đó. Đó cũng có thể là hệ quả của một đời sống nội tâm trống rỗng, khi toàn bộ thời gian sống trong ngày được dành cho việc mưu sinh.

Nhịp sống nhanh hơn, gấp gáp hơn, người ta không có thời gian nghỉ ngơi, cầu nguyện, thực hành nghi lễ, sinh hoạt văn hóa… Nỗ lực lấp đầy khoảng trống điều kiện vật chất đã vô tình lấy đi thời gian, sự sẻ chia, cảm thông của người thân thuộc. Một hiện tại bị “đánh cắp” bởi những ám ảnh tâm thức thiếu thốn trong một lối sống tiêu dùng khiến cho đời sống nội tâm của con người hiện tại trống rỗng. Vì lẽ đó, đời sống văn hóa của con người trở nên nghèo nàn và có lẽ đây cũng là thách đố lớn của đời sống gia đình người Việt hiện nay.

Xét ở khía cạnh giữ gìn những giá trị của đời sống văn hóa, quá trình xã hội hóa cá nhân đang bị thách thức khi diễn trình này đang mất đi phương tiện chuyển giao văn hóa là những tự sự về gia đình, là những phong tục, lễ nghi, là những thực hành gia lễ trong  không gian gia đình. Có thể, ngày nay chúng ta vẫn quan sát thấy các nghi thức, tập tục văn hóa, nhưng cũng có thể các nghi thức đó chỉ còn về mặt hình thức. Người trẻ không hiểu vì sao phải thực hành các nghi thức này và tính chính đáng của tập quán văn hóa được đặt câu hỏi “liệu rằng những nghi thức tập quán này có cần thiết hay không?”

Xét về mối tương liên của các thành viên trong gia đình như: vợ chồng, cha mẹ và con cái, chúng ta có thể quan sát thấy sức ép của nhịp sống vội vã từ kiểu sống hiện đại. Bệ đỡ gia đình theo đó mà dần trở thành những biểu trưng mờ nhạt trong, cùng với đó là những “rung lắc” đời sống hôn nhân – gia đình. Những con số cảnh báo về tình trạng ly hôn, ly thân ở xã hội Việt Nam không còn là câu chuyện của xã hội hiện đại nói chung mà còn là vấn đề của gia phong bị rung lắc mà các gia đình đang đối mặt.

Quan niệm ”trẻ cậy cha, già cậy con” hay ”con cái là của để dành” vẫn tồn tại trong suy nghĩ của nhiều người. Trước đây họ sống trong nền kinh tế nông nghiệp, áp lực tài chính không quá lớn. Còn ngày nay, sống trong thời đại công nghiệp hóa, người trẻ phải lo toan nhiều hơn nên áp lực hơn. Nghiên cứu của viện Đời sống xã hội (Social Life) cho thấy 59% người trẻ lo lắng về tài chính, 55% lo lắng về tạo dựng sự nghiệp. Theo khảo sát của VnExpress với hơn 230 người đã lập gia đình, 56,3% cho biết đang cùng lúc chăm sóc con nhỏ và cha mẹ già, 35,9% cảm thấy áp lực và mệt mỏi khi vừa phải phụng dưỡng cha mẹ già vừa chăm con.

Có thể thấy, khi mọi thứ đều qui về kinh tế, những áp lực gánh nặng mưu sinh đang đề lên vai của người trẻ, liệu rằng những nền nếp gia phong, sự hiếu nghĩa đối với ông bà cha mẹ có còn nguyên vẹn?

Có một thực tế chúng ta phải thừa nhận rằng, trước những thách đố, rung lắc của đời sống gia đình, nhiều người trẻ đang đánh mất cảm thức “thuộc về” gia đình, xu hướng cá nhân hóa và điều kiện sống đã làm cho mối tương liên thiếu sự bền chặt. Trong bối cảnh ngày nay, việc xây dựng nền nếp, gia phong của gia đình trở thành nơi yên ấm, nuôi dưỡng tinh thần cho con trẻ và là nơi thuộc về trong tâm thức mỗi người không phải là điều dễ dàng.

Nói như thế không phải để thấy thách thức rồi buông xuôi mà ngay từ lúc này, chúng ta cần một lời mời gọi sự trở về với nội tâm, với gia đình để dựng lại nếp sống, giá trị văn hóa truyền thừa từ cha ông. Để mai này cháu con ta còn biết ta là ai, cội nguồn tổ tiên, gia tộc là ai để biết trân quý nguồn cội, để hành trang vào đời với đời sống không trở nên nghèo nàn về văn hóa, và nền nếp gia phong.

PGS-TS. Nguyễn Đức Lộc (Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đời sống Xã hội – Social Life)

  • Cử nhân Nhân học tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2003)
  • Thạc sĩ Dân tộc học tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2007)
  • Tiến sĩ Dân tộc học tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2010)
  • Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đời sống Xã hội (Social Life Research Institute) (Hiện nay)

Hướng nghiên cứu:  Cấu trúc xã hội truyền thống của người Việt, Công giáo Việt Nam tại miền Nam, Phúc lợi xã hội dành cho người công nhân nhập cư, Đời sống xã hội Việt Nam đương đại

Nghiên cứu: Đaị học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2005-2015). Đại học Thủ Dầu Một, Bình Dương (2016-2017). Nhóm nghiên cứu Đời sống xã hội, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh

Giảng dạy: Giảng viên tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2005-nay), Giảng viên thỉnh giảng tại Đại học Đà Lạt (2007-2010). Giảng viên thỉnh giảng tại Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (2007-nay). Giảng viên thỉnh giảng tại Đại học Mở (2019). Trưởng ngành truyền thông đa phương tiện tại Đại học Quốc tế Hồng Bàng (2018 đến nay)

Những cuốn sách đã xuất bản của tác giả Nguyễn Đức Lộc:
  • Sự biến đổi tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay
    Đồng tác giả, Nxb Thế giới, 2008
  • Nhập môn Tư duy sáng tạo và Phương pháp nghiên cứu khoa học
    Đồng tác giả, Nxb Tri Thức, 2011
  • Lòng tin và vốn xã hội
    Đồng tác giả, Nxb Tri Thức, 2014
  • Buôn làng Tây Nguyên ngày nay
    Đồng tác giả, Nxb Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh, 2017

1. Video Hướng Dẫn Đăng Ký

Văn phòng Trung Tâm cũng nhận đăng ký qua Email, điện thoại hoặc trực tiếp tại Văn phòng.

2. Học Phí:
Học viên chuyển khoản theo thông tin sau:

    • Chủ Tài Khoản: BÙI THOẠI TRÚC
    • Số Tài Khoản: 7845727
    • Ngân hàng ACB, CN Phan Đình Phùng
    • Nội dung: Họ tên học viên – Tên khoá học viết tắt (viết không dấu)